Nghèo đa chiều - Tổng quan nghiên cứu và gợi mở hướng nghiên cứu ở Việt Nam
Tóm tắt: Bài viết tổng quan nghiên cứu về nghèo đa chiều được thực hiện trên thế giới trong thời gian qua. Các công trình được xem xét gồm hai nhóm: i) Nhóm nghiên cứu theo vùng địa lý; và ii) Nhóm nghiên cứu tập trung vào các đối tượng đặc thù. Với mỗi công trình tác giả xem xét ở các giác độ: Đơn vị phân tích, các chiều, các chỉ báo, phương pháp xác định trọng số và ngưỡng nghèo. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đánh giá về các nghiên cứu nghèo đa chiều và gợi mở định hướng nghiên cứu về nghèo đa chiều ở Việt Nam những năm tới.
Từ khóa: Chỉ số nghèo đa chiều; nghèo đa chiều.
Mở đầu
Những năm gần đây vấn đề nghèo đa chiều đang được quan tâm rộng rãi ở các nước trên thế giới. Xét trên nhiều khía cạnh, phương pháp đo lường nghèo đa chiều mới đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp truyền thống trong nghiên cứu và đánh giá nghèo. .
Theo quan niệm truyền thống, xét về tuyệt đối, nghèo là trạng thái mà cá nhân thiếu các nguồn lực thiết yếu để tồn tại. Còn về tương đối, nghèo là tình trạng một bộ phận cư dân có mức sống dưới mức bình quân của cộng đồng ở khu vực đang xét. Mặc dù quan niệm truyền thống đề cập được sự túng thiếu các yếu tố hữu hình hoặc vô hình, nhưng chủ yếu tập trung vào khía cạnh vật chất mà bỏ qua các yếu tố tác động (giá trị, niềm tin, hạnh phúc) và không phản ánh hết được những tác động của tình trạng nghèo đến người nghèo. Để khắc phục những hạn chế này, quan niệm mới về nghèo đã chú ý nhiều hơn đến cả độ rộng và chiều sâu của vấn đề. Nghèo là thiếu hụt năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng; đồng thời cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh. Thiếu đi sự tham gia và tiếng nói về kinh tế, xã hội hay chính trị sẽ đẩy các cá nhân đến tình trạng bị loại trừ, không được thụ hưởng các lợi ích phát triển kinh tế - xã hội và do vậy bị tước đi các quyền con người cơ bản (UN, 2008).
Ở Việt Nam, việc đo lường nghèo theo phương pháp đa chiều cũng bắt đầu được quan tâm trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, hầu hết các nghiên cứu vẫn sử dụng thang đo nghèo truyền thống thông qua thu nhập, chi tiêu. Chuẩn nghèo được xác định theo mức chi tiêu hoặc thu nhập đáp ứng những nhu cầu tối thiểu, được quy ra đơn vị giá trị và áp dụng mức khác nhau cho các vùng miền khác nhau. Do đó, cách thức xác định hộ nghèo không hợp lý, việc xóa nghèo kém bền vững, và không phản ánh được tính đa chiều của đời sống. Ngoài ra, cũng chưa có các nghiên cứu tổng quan về vấn đề này. Chính vì vậy, bài viết này sẽ hệ thống hóa các nghiên cứu đã có về nghèo đa chiều, trên cơ sở đó gợi mở một số hướng nghiên cứu ở Việt Nam.
1. Tổng quan nghiên cứu về nghèo đa chiều ở cấp độ địa lý
Chỉ báo nghèo đa chiều có thể phân biệt giữa người nghèo và không nghèo dựa trên các chiều cạnh khác biệt và các loại hình thiếu hụt. Trên cơ sở cách tiếp cận năng lực được đề xuất bởi Amartya Sen, phương pháp đánh giá nghèo đa chiều thừa nhận nghèo như một hiện tượng có nhiều mặt. Trong mối liên hệ nghèo với tập hợp các năng lực hoặc chức năng, cá nhân có thể xác định đặc trưng về cuộc sống như họ mong muốn, qua đó phản ánh sự tự do mà họ hướng đến, theo một cách nào đó (Sen, 1992). Trên phương diện này, đánh giá nghèo đa chiều là một chỉ báo tập hợp liên quan đến nhiều chiều cạnh như sức khỏe, giáo dục, điều kiện sống,...
Cách tiếp cận mới về nghèo đa chiều nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau: (i) Nghèo không chỉ là về thu nhập mà còn gồm nhiều khía cạnh của đời sống mà không có chỉ báo đơn lẻ nào, chẳng hạn như thu nhập, phản ánh hết được các mặt của tình trạng nghèo (Bourguignon and Chakravarty, 2003); (ii) Cách đo nghèo đa chiều: Xem xét trên nhiều phương diện tác động đến đời sống con người; và (iii) Đặc trưng của người nghèo được thể hiện rất đa dạng, với độ rộng và sâu khác nhau. Tiếp cận nghèo đa chiều dựa trên những khía cạnh tác động của tình trạng nghèo đến người nghèo và góp phần chỉ ra đặc trưng của họ (giáo dục, y tế,...).
Có thể nói, công trình của Bourguignon và Chakravarty (2003) là nỗ lực đầu tiên của giới nghiên cứu trong việc thao tác hóa nghèo đa chiều dựa trên tiền đề của Sen (1976). Bourguignon và Chakravarty giới thiệu phương pháp luận bao gồm các chiều cạnh, với các ngưỡng xác định cá nhân hoặc hộ gia đình nghèo là không đạt được mức tối thiểu của một hay nhiều chiều cạnh. Phương pháp này được gọi là phương pháp tập hợp (union). Ngoài ra, hai tác giả cũng đề xuất mô hình xác định người nghèo và tập hợp những đặc điểm của người nghèo với các loại hình chức năng hay các chỉ báo khác nhau. Mô hình được đề xuất khác biệt so với các chỉ báo tổng hợp đa chiều trước đó như Chỉ số phát triển con người (HDI) và Chỉ số nghèo tổng hợp (HPI) trên hai phương diện:
Thứ nhất, chỉ số nghèo của họ (tính theo đầu người và khoảng cách nghèo) có thể được đo lường theo cấp độ cá nhân hoặc hộ.
Thứ hai, chỉ số về nghèo thỏa mãn tập hợp các tiền đề và đặc trưng kỳ vọng.
Để minh họa cho phương pháp này, Bourguignon và Chakravarty tính toán các ước lượng nghèo cho vùng nông thôn ở Brazil năm 1981 và 1987 bằng việc sử dụng giáo dục và thu nhập làm các chiều cạnh chính. Họ nhận ra rằng, nghèo đa chiều trên cấp độ cá nhân ở nông thôn Brazil là 80% năm 1981 và 76% năm 1987; trong khi đó nếu tính theo chuẩn thu nhập quốc gia, tỷ lệ nghèo lần lượt là 40% và 42%.
Tiếp nối cách tiếp cận trên, Chakravarty và D’Ambroso (2006) phát triển phương pháp đánh giá loại trừ xã hội, hay Chakravarty et al (2008) đưa ra chỉ báo đa chiều như là sự mở rộng chỉ báo nghèo và khoảng cách nghèo của Watts (1968).
Đến năm 2007, khái niệm nghèo đa chiều đã được phổ biến rộng rãi hơn trong giới nghiên cứu và những người làm chính sách. Nhiệm vụ trọng tâm lúc này là phát triển một khung phân tích chặt chẽ để đo lường nghèo đa chiều. Alkire và Foster đã giới thiệu 12 bước để đánh giá về nghèo đa chiều trong đó sáu bước đầu tiên mang tính phổ biến với các cách đo lường về nghèo đa chiều và sáu bước tiếp theo áp dụng mang tính đặc trưng cho phương pháp luận của họ. Phương pháp đánh giá nghèo đa chiều của Alkire và Foster đòi hỏi:
Một là, nhận diện song song, có xu hướng mở rộng phương pháp liên ngành.
Hai là, bộ chỉ báo đo lường nghèo bao gồm một tập hợp tài sản cần có. Phương pháp luận đa chiều này được nhóm tác giả cho rằng phù hợp cho báo cáo về nghèo đa chiều giống như phương pháp về nghèo về thu nhập, và xem xét sự thay đổi tình trạng nghèo của một quốc gia hay tiểu bang theo một chuỗi thời gian (Alkire and Foster, 2007).
Đến năm 2010, chỉ số nghèo đa chiều mới (Multidimensional Poverty Index - MPI) dựa trên phương pháp đánh giá nghèo đa chiều của Alkire và Foster, được áp dụng tính toán cho 104 quốc gia. Đây là lần đầu tiên nghèo đa chiều được tính toán dựa trên bộ chỉ số vi mô (điều tra hộ gia đình), gồm các quốc gia chiếm khoảng 78% dân số toàn thế giới. MPI bao gồm 10 chỉ báo đại diện cho ba mặt của chỉ số HDI (giáo dục, y tế chất lượng cuộc sống), phản ánh một tập hợp những sự thiếu hụt cùng một lúc với một người. Công cụ này có thể được sử dụng hướng đến nhóm nghèo nhất, và thiết kế chính sách hướng trực tiếp đến những người bị tước đoạt nhiều nhu cầu sống cùng một lúc (Alkire and Santos, 2010).
Bảng 1: CHIỀU CẠNH, CHỈ BÁO, CHUẨN NGHÈO VÀ ĐIỂM GIA TRỌNG CỦA MPI CHO CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Chiều cạnh | Chỉ báo | Hộ nghèo nếu | Liên quan đến | Trọng số |
Giáo dục | Số năm đi học | Không có thành viên nào hoàn thành 5 năm học | MDG2 | 1/6 |
Tuổi nhập học | Có trẻ 1-8 tuổi chưa đi học | MDG2 | 1/6 | |
Y tế/Chăm sóc sức khỏe | Tử vong ở trẻ em | Có ít nhất 1 trẻ tử vong | MDG4 | 1/6 |
Dinh dưỡng | Có trẻ em/người lớn bị suy dinh dưỡng | MDG1 | 1/6 | |
| Điện | Không có điện |
| 1/18 |
| Xử lý nước, chất thải | Không có hệ thống xử lý nước, chất thải hoặc phải sử dụng chung | MDG7 | 1/18 |
Điều kiện sống | Nước | Không sử dụng nước sạch để nấu ăn | MDG7 | 1/18 |
| Sàn nhà | Sàn nhà bằng đất, cát hoặc có phân động vật |
| 1/18 |
| Năng lượng nấu ăn | Sử dụng than, củi để nấu ăn | MDG7 | 1/18 |
| Tài sản | Không có ít nhất tài sản: đài, TV, điện thoại, xe đạp,… | MDG7 | 1/18 |
Nguồn: Alkire và Santos (2010, p.17).
Ghi chú: MDG là mục tiêu thiên niên kỷ, theo đó, MDG1 là xóa đói giảm nghèo, MDG2 là phổ cập giáo dục tiểu học, MDG4 là giảm tỷ suất chết ở trẻ em, MDG7 là bảo đảm bền vững về môi trường.
Trong nỗ lực làm sáng tỏ hơn phương pháp tính toán về nghèo đa chiều của mình, Alkire và Foster đã phân tích những đặc trưng trong phương pháp luận của họ. Trước hết là việc phân biệt phương pháp luận đơn chiều và đa chiều. Ở đây, Alkire và Foster cũng áp dụng cách tiếp cận của Sen (1992) trong việc thảo luận về phương pháp đa chiều và đơn chiều. Họ khẳng định: (i) Phương pháp nghiên cứu về nghèo của họ dựa trên luận điểm coi nghèo là sự thiếu hụt đa chiều; (ii) Phương pháp tính toán đòi hỏi phải sử dụng bộ số liệu từ một cuộc điều tra duy nhất; (iii) MPI theo phương pháp luận của họ gồm 10 chỉ báo áp dụng chung cho các nước đang phát triển với dữ liệu có thể dùng để so sánh (Alkire and Foster, 2011a,b).
Theo kết quả phân tích của Alkire và Santos (2010) từ mẫu 104 nước, có 1,7 tỷ người (tương đương 1/3 dân số) đang trong tình trạng nghèo đa chiều nếu chiếu theo MPI. Cũng tại các quốc gia này, nếu áp dụng theo cách đánh giá thông thường về chuẩn nghèo từ 1,25 USD trở xuống thì chỉ có 1,3 tỷ người nghèo, và nếu chiếu theo MPI thì những người này đang ở mức cực nghèo.
MPI cũng nắm bắt những khía cạnh đặc trưng và phổ biến của nghèo. Ví dụ ở Ethiopia có đến 90% người rơi vào nhóm nghèo theo MPI, nhưng khi xác định nghèo theo thu nhập thì tỷ lệ người nghèo chỉ là 39%. Ngược lại, ở Tanzania 89% người thuộc diện nghèo cùng cực theo thu nhập, nhưng khi vận dụng tính toán theo MPI thì tỷ lệ người nghèo lại thấp hơn, chỉ 65%. MPI cũng nhận diện những thiếu hụt trên phương diện y tế/sức khỏe, chi tiêu cho giáo dục và những dịch vụ thiết yếu như nước, vệ sinh môi trường và điện. Ở một số quốc gia, các dịch vụ thiết yếu này được cung cấp miễn phí hoặc với giá rất thấp nên không được thể hiện trong cơ cấu chi tiêu .
Theo tính toán, có khoảng 1/2 người nghèo trên thế giới sống ở Nam Á (51%, tương đương 844 triệu người) và 1/4 ở châu Phi (28%, tương đương 458 triệu người). Niger là quốc gia có tình trạng nghèo cao nhất, với 93% dân số ở nhóm nghèo xét theo đánh giá của MPI. Ngay cả ở các quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng mạnh gần đây, đánh giá theo MPI cũng cho thấy, vấn đề nghèo đói vẫn chưa được giải quyết song hành với tăng trưởng kinh tế. Điển hình là ở Ấn Độ, số lượng người nghèo theo MPI ở tám bang ở Ấn Độ (Bihar, Chhattisgarh, Jharkhand, Madhya Pradesh, Orissa, Ajasthan, Uttar Pradesh, và West Bengal) là 412 triệu, cao hơn con số tương ứng ở 26 nước châu Phi cộng lại (410 triệu).
Theo Alkire and Santos (2010), phương pháp xác định nghèo đa chiều giúp nhận diện những hộ gia đình/nhóm dễ bị tổn thương nhất; và giúp nhà nghiên cứu, chính quyền và các tổ chức phát triển cộng đồng hiểu chính xác người nghèo đang túng thiếu cùng cực ở vấn đề nào trong cuộc sống, từ đó đưa ra chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn.
Trên cơ sở phương pháp luận về nghèo đa chiều của Alkire-Foster, các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách đã vận dụng và phát triển theo các mục đích khác nhau. Dưới đây là tóm lược cách tiếp cận và phương pháp tính toán của một số công trình (Bảng 1 - Phụ lục).
Xét về tổng thể, có thể thấy các công trình có sự khác biệt đáng kể về cách thức tính toán, mặc dù về phương pháp luận chung là giống nhau: Thứ nhất, cấp độ phân tích bao gồm cả hộ và cá nhân, cho dù xét về bản chất nghèo đa chiều, cấp độ cá nhân phù hợp hơn. Tuy nhiên, do tính sẵn có của số liệu, hầu hết các nghiên cứu sử dụng cấp độ hộ. Thứ hai, số chiều và chỉ báo được xem xét cũng khác nhau, và có mức dao động khá cao. Thứ ba, phương pháp gán trọng số cũng hết sức đa dạng, có thể là trọng số đều hoặc lệch. Tuy nhiên, với định hướng tương thích với các mục tiêu chính sách đề ra, phương pháp trọng số đều được sử dụng phổ biến hơn. Thứ tư, hệ số k (ngưỡng nghèo chung có trọng số) cũng được sử dụng hết sức linh hoạt và có độ biến thiên lớn để tính tỷ lệ nghèo ở các ngưỡng khác nhau. Tuy nhiên, hiện cũng chưa có phương pháp tính toán hệ số này một cách đáng tin cậy, nhận được sự đồng thuận rộng rãi. Thứ năm, việc xác định các ngưỡng nghèo thành phần cũng hết sức đa dạng. Các mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs) và chiến lược phát triển giáo dục quốc gia thường là căn cứ quan trọng nhất để xây dựng các ngưỡng nghèo về giáo dục. Một số tiêu chuẩn khác của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và chiến lược bảo vệ sức khỏe quốc gia cũng được sử dụng làm ngưỡng cho chiều cạnh y tế. Trong khi đó, ngưỡng thu nhập thường được xác định dựa trên các chuẩn nghèo quốc gia. Ngoài ra, các chiều cạnh khác thường có ngưỡng được xây dựng dựa trên sự lựa chọn và phân tích riêng của từng tác giả.
Từ gợi ý về MPI cho các nước đang phát triển của Alkire và Santos, các nghiên cứu về nghèo đa chiều đã có sự vận dụng linh hoạt để phù hợp với đặc thù của mỗi quốc gia. Cách xác định trọng số thường là trọng số đều. Bảng tóm tắt các chiều cạnh, chỉ số nghèo đa chiều ở các quốc gia cho thấy sự khác biệt về việc xác định chiều cạnh nghèo và chiến lược xóa đói giảm nghèo mà mỗi quốc gia cần hướng tới (Bảng 2, 3 - Phụ lục).
2. Nghiên cứu về nghèo đa chiều ở một số nhóm đối tượng đặc thù
2.1. Nghiên cứu nghèo đa chiều ở nhóm phụ nữ - trường hợp các nước vùng Hạ Sahara
Batana (2013) đã đánh giá nghèo đa chiều ở phụ nữ ở 14 nước vùng Hạ Sahara dựa trên phương pháp đánh giá nghèo đa chiều của Alkire-Foster. Việc đánh giá nghèo đa chiều dựa trên bốn chiều cạnh: tài sản, y tế, giáo dục và bình đẳng giới và so sánh với một số phương pháp đánh giá khác như Chỉ số phát triển con người, nghèo thu nhập, nghèo tài sản, Chỉ số phát triển giới. Việc đánh giá tương quan nghèo theo vùng địa lý cho thấy, phụ nữ ở khu vực nông thôn nghèo hơn khu vực đô thị và nghèo nhất ở chiều cạnh giáo dục.
Phụ lục
Bảng 1: TÓM LƯỢC MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NGHÈO ĐA CHIỀU
TT | Công trình | Nước/vùng | Đơn vị phân tích | Số chiều | Số chỉ báo | PP tính trọng số | Cơ sở dữ liệu | Hệ số k |
I | Châu Á |
|
|
|
|
|
|
|
1 |
|
|
Santos and Ura (2008) |
|
|
Bhutan | HGĐ | 5 (đô thị và nông thôn), 7 (riêng nông thôn) | 5 (đô thị và nông thôn), 7 (riêng nông thôn) | Trọng số đều và trọng số lệch | Tổng điều tra Hạnh phúc quốc gia - GNHS | 0,1 - 0,5 | ||
2 | Alkire and Seth (2013) | Ấn Độ | HGĐ | 3 | 10 | Trọng số đều |
| 0,33 |
4 | Yu (2013) | Trung Quốc | HGĐ | 5 | 8 | Trọng số đều |
| 0 - 0,5 |
6 | Hannanditaand Tampubolon (2015) |
|
|
Indonesia | HGĐ | 3 | 5 | Trọng số đều - lệch | Điều tra kinh tế - xã hội quốc gia | 0,167 - 1 | ||
7 | MOLISA (2015) | Việt Nam | HGĐ | 6 | 11 | Trọng số đều | Điều tra mức sống HGĐ | 0,2 -0,5 |
II | Châu Mỹ |
|
|
|
|
|
|
|
1 | Salazar et al. (2013) |
|
|
Columbia | HGĐ | 5 | 15 | Trọng số đều | Khảo sát mức sống HGĐ 7 (LSMS) | 0,33 |
2 | Bronfman (2014) |
|
|
Chile | Cá nhân | 4 | 10 | Trọng số đều |
| 0,1 -1,0 | ||
III | Châu Phi |
|
|
|
|
|
|
|
1 | Rogan (2015) |
|
|
Nam Phi | HGĐ | 3 | 9 | Trọng số đều | Dự án Thống kê tiêu chuẩn sống và phát triển (PSLSD) và nghiên cứu động lực thu nhập quốc gia (NIDS) | 0,33 |
2 | Ningaye et al. (2011) |
|
|
Cameroon | HGĐ | 5 | 23 | Trọng số lệch (rút ra qua phân tích đa nhân tố - MFA) | Điều tra HGĐ Cameroon | 0,0828 - 0,146 |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2015).
Ghi chú: Hệ số k nhằm xác định ngưỡng nghèo chung. Không có phương pháp thống nhất trong việc xác định chỉ số k. Thông thường, nếu chỉ số k càng nhỏ thì một cá nhân/hộ bất kỳ có khả năng được xác định là nghèo càng lớn. Nếu mức độ nghèo của mỗi cá nhân/hộ lớn hơn k thì cá nhân/hộ đó được xem là nghèo.
BẢNG 2: CÁC CHIỀU VÀ CHỈ BÁO CỦA MỘT SỐ NGHIÊN CỨU Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á
TT
| Chiều
| Chỉ báo giáo dục (trọng số - w*) | Chỉ báo y tế (trọng số - w) | Chỉ báo điều kiện sống/Tài sản (trọng số -w) | Chỉ báo thu nhập/chi tiêu (trọng số - w) | Chỉ báo khác (trọng số - w) | Các căn cứ xác định ngưỡng nghèo (z**) |
1 | Santos and Ura (2008) - Bhutan | Biết đọc viết và trẻ em đến trường (0,2 và 0,26) | - | Tiếp cận điện lưới (0,2 và 0,16); Tiếp cận nước sạch (0,2 và 0,04); Phòng ở (0,2 và 0,14) | Thu nhập bình quân đầu người/tháng (0,2 và 0,4) | Tiếp cận giao thông Sở hữu đất đai (riêng cho nông thôn) | MDGs |
2 | Alkire and Seth (2013) - Ấn Độ | Số năm đi học (1/6) và Nhập học trẻ em (1/6) | Tử vong ở trẻ em (1/6); Dinh dưỡng (1/6) | Tiếp cận điện lưới (1/18); Tiếp cận vệ sinh (1/18); Tiếp cận nước sạch (1/18); Loại nhà ở (1/18); Loại chất đốt (1/18); Sở hữu tài sản (1/18) | - | Trọng số đều | MDGs WHO Chuẩn quốc gia |
4 | Yu (2013) – Trung Quốc | Hoàn thành bậc tiểu học (0,2) | Chỉ số cơ thể (BMI-0,2) | Tiếp cận nước sạch (0,05); Tiếp cận các điều kiện vệ sinh (0,05); Tiếp cận điện lưới (0,05); Tiếp cận chất đốt an toàn (0,05) | Thu nhập bình quân đầu người/năm (0,2) | An sinh xã hội (Bảo hiểm y tế (0,2) | MDGs WHO Chuẩn quốc gia |
6 | Hannandita and Tampubolon(2015) - Indonesia | Thời gian đi học (1/6 và 1/3) Mù chữ (1/6 và 0) | Khoảng thời gian bị ốm (1/6 và 1/3) và Phạm vi bị bệnh (1/6 và 0) |
| Chi tiêu bình quân đầu người/ngày (1/3) | Trọng số đều | MDGs |
7 | MOLISA (2015) – Việt Nam | Trình độ giáo dục của người lớn (1/10) và Tình trạng đi học của trẻ em (1/10) | Tiếp cận các dịch vụ y tế (1/10) và Bảo hiểm y tế (1/10) | Nguồn nước sinh hoạt (1/10), Hố xí/nhà vệ sinh (1/10) |
| - Nhà ở: chất lượng nhà ở (1/10) và diện tích nhà ở bình quân đầu người (1/10) - Tiếp cận thông tin: Sử dụng dịch vụ viễn thông (1/10) và Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin (1/10) | Hiến pháp, một số Luật và nghị quyết |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2015).
Ghi chú: - (*) Trọng số (w) có thể được tính theo phương pháp bình quân, nghĩa là xem các chiều (D1,…Dm) có tầm quan trọng như nhau.
∑wj = m (số chiều), hoặc ∑wj = 1. Từ đó, trọng số của mỗi chiều=1/m, trong đó m là số lượng chiều nghèo được xem xét; và trọng số của chỉ báo wj=1/m*a, trong đó a là số lượng chỉ báo của chiều j. Ví dụ, nếu nghèo đa chiều được xem xét trên 4 chiều (m=4) thì trọng số của mỗi chiều=1/4; và nếu chiều thứ nhất gồm 2 chỉ báo thì trọng số của mỗi chỉ báo=1/8.
Các trọng số cũng có thể được xác định bằng các phương pháp khác như lấy ý kiến chuyên gia, phân tích nhân tố (FA),…
- (**) Ngưỡng nghèo (z) được xây dựng dựa trên nhiều căn cứ khác nhau, có thể là từ Các mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs), mục tiêu quốc gia, mục tiêu của từng lĩnh vực (giáo dục, y tế, điều kiện sống,…) mà vùng, địa phương đặt ra. Từ đó, chỉ báo j đối với cá nhân/hộ i (xij, i=1,…,n) được đem so sánh với các zj.
Cá nhân/hộ đó được xem là nghèo (=1) ở chỉ báo j nếu xij<zj, và không nghèo (=0) nếu xij>zj.
BẢNG 3: CÁC CHIỀU VÀ CHỈ BÁO CỦA NGHIÊN CỨU Ở MỘT SỐ NƯỚC CHÂU PHI - MỸ
TT | Chiều
| Chỉ báo giáo dục (trọng số w*) | Chỉ báo y tế (trọng số w) | Chỉ báo điều kiện sống/Tài sản (trọng số w) | Chỉ báo thu nhập/chi tiêu (trọng số w) | Chỉ báo khác (trọng số w) | Các căn cứ xác định ngưỡng nghèo (z**) |
I | Châu Mỹ |
|
|
|
|
|
|
1 |
Salazar et al. (2013) - Colombia | Trình độ giáo dục (0,1) và Mù chữ (0,1) | Bảo hiểm Y tế (0,1) và tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe (0,1) | Tiếp cận dịch vụ công và tình trạng nhà ở: Tiếp cận nguồn nước (0,04); hệ thống thoát nước (0,04); nền nhà ở (0,04); không xung đột do đông người (0,04) |
| Điều kiện của thanh - thiếu niên: Nhập học (0,05); bỏ học (0,05); tiếp cận dịch vụ chăm sóc trẻ (0,05); việc làm: thất nghiệp dài hạn (0,1) và việc làm chính thức (0,1) | HDI, MDGs, số liệu thống kê sẵn có, tham vấn chuyên gia |
2 | Bronfman (2014) - Chile | Biết đọc biết viết (1/8) và số năm đi học (1/8) | Dinh dưỡng và tự đánh giá sức khỏe (1/4) | Tài sản (1/24); nước sạch (1/24); điện (1/24); nhà vệ sinh (1/24); loại nhà ở (1/24); phòng ở (1/24) | Thu nhập bình quân tháng (1/4) | - | MDGs và các chuẩn quốc gia |
II | Châu Phi |
|
|
|
|
|
|
1 | Rogan (2015) - Nam Phi | Số năm đến trường (1/6) và số trẻ đi học trong độ tuổi (1/6) | Tử vong ở trẻ em (1/6) và dinh dưỡng (1/6) | Nước sinh hoạt (1/15); điện (1/15); vệ sinh môi trường (1/15); năng lượng nấu ăn (1/15); tài sản sở hứu (1/15) |
|
| Alkire và Santos (2010); OPHI (2011); Finn et al. (2013) |
2 | Ningaye et al. (2011) - Cameroon | Vốn con người: trình độ đào tạo, số trẻ bỏ học
|
| Nhà ở: nguồn năng lượng chiếu sáng, đun nấu, loại nhà vệ sinh, chất liệu xây tường nhà - mái nhà - sàn nhà, sở hữu: điện thoại cố định, điện thoại di động, một đài cát sét, một bếp gas, bếp dầu hỏa, một chiếc ti vi, một hộp sắt và nguồn nước ăn. | Tiêu dùng; tiêu dùng cá nhân, nhận trợ cấp từ người thân, tiền thu từ cho thuê nhà hoặc đổi nhà; Tài chính: có 1 số chỉ báo khác đã phản ánh đối tượng bị nghèo tiền tệ trong hộ | Cơ sở hạ tầng: cách xa trên 6 km trường tiểu học gần nhất, trung tâm y tế gần nhất, chợ gần nhất và đường rải nhựa
| Phân tích tương quan đa biến |
Nguồn: Tổng hợp của tác giả (2015).
Ghi chú: (*) và (**) xin xem ghi chú tại Bảng 3.
Điều tra y tế và nhân khẩu học (DHS) năm 2003-2006 là cơ sở dữ liệu cho tính toán các chỉ số thành phần MPI. Số chiều cạnh phản ánh nghèo đa chiều trong nhóm phụ nữ vùng Hạ Sahara được xác định gồm tài sản (08 chỉ báo), giáo dục (01 chỉ báo), thể chất (01 chỉ báo), bình đẳng giới (01 chỉ báo).
Bảng 2: CÁC CHIỀU CẠNH, CHỈ BÁO, NGƯỠNG NGHÈO VÀ TRỌNG SỐ
Chỉ báo/chiều cạnh | Tình trạng thiếu hụt | Trọng số |
Tài sản |
|
|
Điện | Không có điện sử dụng | 1/32 |
Đài Radio/TV | Ít nhất không có đài Radio | 1/32 |
Tủ lạnh | Không có tủ lạnh | 1/32 |
Phương tiện | Không có ít nhất 1 chiếc xe | 1/32 |
Sàn nhà | Sàn nhà nền đất tự nhiên, nền thô | 1/32 |
Điện thoại | Không có điện thoại | 1/32 |
Nước sinh hoạt | Theo định nghĩa của MDGs | 1/32 |
Điều kiện vệ sinh | Theo định nghĩa của MDGs | 1/32 |
Giáo dục | Theo định nghĩa của MDGs | 1/4 |
Chỉ số khối cơ thể (BMI) | Dưới 18,5 (theo tiêu chuẩn của WHO) | 1/4 |
Bình đẳng giới | Nếu không được quyết định thăm gia đình, họ hàng | 1/4 |
Nguồn: Batana (2013).
Chiều cạnh tài sản được đánh giá bằng nhóm tám chỉ số gộp là những tài sản lâu bền và việc tiếp cận dịch vụ (điện, điện thoại, chất lượng sàn nhà, nước ăn, vệ sinh môi trường). Trước đây, các chỉ báo về tài sản này đã từng được sử dụng ở châu Phi, được xác định qua phân tích đa nhân tố thực hiện bởi Sahn and Stifel (2000) và Batana and Duclos (2010). Chiều cạnh giáo dục được đo lường bằng số năm đi học (dưới 6 năm). Chiều cạnh BMI xác định người nghèo nếu BMI < 18,5. Chiều cạnh bình đẳng giới - tiếp cận quyền là chỉ báo có mối liên hệ chặt chẽ với việc người ra quyết định, xác định liệu phụ nữ có phải là người ra quyết định về các vấn đề: (i) Chăm sóc sức khỏe; (ii) Xây dựng nhà cửa và mua sắm vật dụng đắt tiền; (iii) Quyết định nhu cầu hàng ngày của hộ gia đình; (iv) Thăm người thân, họ hàng; và (v) Lựa chọn thực phẩm hàng ngày.
Phương pháp xác định trọng số (w) trong nghiên cứu này là trọng số đều. Theo kết quả tính toán, nếu k = 0,2 tỷ lệ phụ nữ nghèo là 50%; và nếu k = 0,3, con số này là 75%.
2.2. Nghiên cứu về nghèo đa chiều ở trẻ em - Trường hợp Afganistan
Trani et al. (2013) đã đánh giá đa chiều về nghèo ở trẻ em tại Afganistan và vận dụng phương pháp của Alkire-Foster đề cập đến nhiều chiều cạnh liên quan. Nghèo ở trẻ em xảy ra khi có sự thiếu hụt về năng lực cơ bản, kết hợp với các chức năng đạt được. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ cuộc điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên về trẻ em được thực hiện bởi Handicap International năm 2005, thu thập thông tin về những điều kiện sống của trẻ em bị bỏ qua trong các cuộc khảo sát chính thống của quốc gia. Có mười chiều cạnh đánh giá nghèo ở trẻ em, qua đó các tác giả chỉ ra rằng, những trẻ em nghèo sống ở khu vực nông thôn nhỏ tuổi hơn nhóm trẻ nghèo ở thành thị, và bé gái và trẻ khuyết tật là nghèo hơn cả.
Bảng 6: CÁC CHIỀU CẠNH NGHÈO Ở TRẺ EM
STT | Chiều cạnh | Nghèo nếu |
1 | Chăm sóc sức khỏe: tiếp cận nước sạch | Nước sông/suối, ao hồ, nước mưa, nước bể chứa,… |
2 | Chăm sóc | Thiếu sự chăm sóc của mẹ |
3 | Tài sản gia đình: nghèo về vật chất của gia đình | Có dưới 6 tài sản |
4 | An ninh lương thực: nghèo về vật chất ở trẻ | Không đủ thực phẩm |
5 | Hòa nhập xã hội | Có ít nhất 1 phương án được lựa chọn |
6 | Giáo dục | Chưa bao giờ đến trường |
7 | Không bị bóc lột vì mục đích kinh tế hay phi kinh tế và có hoạt động lúc rảnh rỗi | Có trên 2 giờ làm việc |
8 | Nơi ở và môi trường | Có trên 3 người/phòng |
9 | Sự tự chủ | Khó khăn vừa phải |
10 | Di chuyển | Khó khăn vừa phải |
c0chính thống của quốc gia. Có 1Nguồn: Trani et al. (2013, p.401).
Đánh giá về nghèo đa chiều ở trẻ em ở Afganistan được tính toán theo nhóm tuổi (5-7 tuổi, 8-11 tuổi, 12-14 tuổi), theo giới tính (nam, nữ), theo tình trạng sức khỏe (bị khuyết tật, không bị khuyết tật). Ngưỡng nghèo được xác định từ k = 0,1-1,0 và tương ứng với mỗi ngưỡng nghèo đều tính tỷ lệ nghèo chung và độ rộng của nghèo đa chiều ở trẻ em theo nhóm tuổi.
2.3. Nghiên cứu về nghèo đa chiều ở trẻ em - trường hợp Colombia
García và Ritterbusch (2014) đã thiết kế và phát triển bộ chỉ báo nghèo đa chiều ở trẻ em tại Colombia. Trên cơ sở sử dụng kết hợp bộ công cụ nghiên cứu định tính và định lượng, nhóm tác giả đã xây dựng bộ chỉ số nghèo đa chiều ở trẻ em và thanh thiếu niên (MCAP) trên nền dữ liệu khảo sát hộ gia đình cho ba năm (2008, 2009, 2011) để có thể đánh giá theo chuỗi thời gian. Nghiên cứu này đã vận dụng phương pháp luận đánh giá nghèo đa chiều của Alkire-Foster. Nhóm đối tượng đánh giá nghèo được phân chia dựa trên đặc điểm địa lý (khu vực phía Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, vùng Trung tâm và Amazon) và tuổi (nhóm từ 0-2, 3-5, 6-11 tuổi, và 12-17 tuổi).
Bảng 7: CÁC CHIỀU CẠNH ĐÁNH GIÁ NGHÈO ĐA CHIỀU
STT | Chiều cạnh | Chỉ báo |
1 | Giáo dục | Không đến nhà trẻ (chỉ xét với nhóm 3-5 tuổi), không đi học (chỉ xét với nhóm 6-17 tuổi), nhập học muộn hơn tuổi quy định |
2 | Dinh dưỡng | Suy dinh dưỡng, thiếu thức ăn |
3 | Y tế, chăm sóc sức khỏe | Không có bảo hiểm, gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, không được tiêm chủng, không có nước sạch, không có dịch vụ vệ sinh môi trường |
4 | Nhà ở | Nhà quá chật, sàn nhà bẩn, nguyên vật liệu xây dựng không an toàn |
5 | Đảm bảo kinh tế | Khó khăn về kinh tế |
6 | An ninh | Bị lạm dụng, bị thờ ơ, bạo lực tại nơi sinh sống |
7 | Vui chơi, giải trí | Không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí, không có công viên, cây xanh |
8 | Thông tin | Không được tiếp cận thông tin |
Nguồn: García và Ritterbusch (2014).
Kết quả phân tích cho thấy, sự khác biệt đáng kể giữa nhóm nghèo và không nghèo ở các chiều cạnh và giữa các nhóm lứa tuổi. Bên cạnh ưu điểm, một số hạn chế của MCAP cũng được chỉ ra bao gồm: (i) Chưa phản ánh đầy đủ đặc điểm của các chiều cạnh (ví dụ chỉ báo về trẻ đến trường được đo bằng cách lọc nhóm trẻ đang đi học với không đi học và không xem xét đến điều kiện và chất lượng của trường học); và (ii) MCAP sử dụng trọng số đều, cần tham vấn chuyên gia cho việc xác định điểm trọng số cũng như xác định những chiều cạnh cần được ưu tiên.
2.4. Nghiên cứu về nghèo đa chiều ở trẻ em - trường hợp Việt Nam
Tổng cục Thống kê (GSO) và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF) (2011) phối hợp thực hiện Báo cáo về tình trạng nghèo đa chiều ở trẻ em Việt Nam, đã sử dụng cơ sở dữ liệu từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2008. Báo cáo này sử dụng phương pháp đa chiều trong đánh giá nghèo ở trẻ em, gồm sáu chiều cạnh và chín chỉ tiêu thành phần. Các ngưỡng nghèo được đưa ra như sau:
(1) Giáo dục: Tỷ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi không đi học đúng độ tuổi (Chỉ tiêu 1) và Tỷ lệ trẻ em từ 11-15 tuổi không hoàn thành cấp tiểu học (Chỉ tiêu 2).
(2) Y tế: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi 0-4 không đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trong 12 tháng qua (Chỉ tiêu 3).
(3) Nhà ở: Tỷ lệ trẻ em sống trong hộ gia đình không có điện sinh hoạt (Chỉ tiêu 4) và Tỷ lệ trẻ em sống trong hộ gia đình không có nhà ở đạt tiêu chuẩn (Chỉ tiêu 5).
(4) Nước sạch và vệ sinh: Tỷ lệ trẻ em sống trong ngôi nhà không có hố xí hợp vệ sinh (Chỉ tiêu 6) và Tỷ lệ trẻ em sống trong hộ gia đình không có nguồn nước sạch (Chỉ tiêu 7).
(5) Tình trạng lao động: Tỷ lệ trẻ từ 6-15 tuổi phải làm việc tạo ra thu nhập trong hoặc ngoài hộ gia đình trong 12 tháng qua (Chỉ tiêu 8).
(6) Thừa nhận xã hội và bảo trợ xã hội: Tỷ lệ trẻ em sống trong hộ gia đình có chủ hộ không làm việc do già yếu hoặc tàn tật (Chỉ tiêu 9).
Tuy nhiên phương pháp xác định tỷ lệ nghèo ở trẻ em khá khác biệt, với trẻ được xem là nghèo nếu có hai trong sáu chiều cạnh dưới ngưỡng nghèo. Báo cáo có hạn chế về cơ sở dữ liệu bởi mẫu điều tra không bao gồm hộ gia đình mới nhập cư. Mẫu được thiết kế chỉ đại diện đến cấp vùng nên số liệu trẻ em không thể phân tổ nhỏ đến cấp tỉnh. Thông tin về lĩnh vực vui chơi giải trí của trẻ em, cũng như thông tin về thừa nhận xã hội và bảo trợ xã hội, y tế cũng không đủ để đưa ra những kết quả nghèo đa chiều ở những chiều cạnh này.
Roelen et al. (2009a,b, 2014) đã vận dụng phương pháp đa chiều trong đánh giá nghèo ở trẻ em Việt Nam và sử dụng cơ sở dữ liệu Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ Việt Nam (MICS) 2006. Nghiên cứu này đánh giá nghèo ở trẻ em trên bảy chiều cạnh: giáo dục, y tế, nhà ở, nước và vệ sinh môi trường, lao động trẻ em, vui chơi và sự thừa nhận và bảo trợ xã hội. Phương pháp phân tích hướng đến đặc trưng của trẻ em và đơn vị phân tích là cá nhân trẻ. Kết quả phân tích cho thấy, 37% trẻ em sống trong tình trạng nghèo và không nhận thấy có sự chênh lệch về giới trong tình trạng nghèo ở trẻ em. Tuy nhiên, có sự phân hóa giữa nông thôn - thành thị, giữa các vùng và bất bình đẳng lớn giữa các nhóm xã hội. Đồng thời, cũng gặp vấn đề như nghiên cứu của Tổng cục Thống kê và UNICEF (2011), cơ sở dữ liệu sử dụng từ MICS 2006 không tiếp cận được nhóm trẻ của gia đình di cư trong khoảng thời gian gần với cuộc điều tra, bởi cơ sở lựa chọn mẫu chỉ tính những hộ đăng ký hộ khẩu tại nơi cư trú.
Như vậy, phương pháp đánh giá nghèo đa chiều của Alkire-Foster cũng đã được vận dụng trong đánh giá nghèo ở những nhóm dễ bị tổn thương. Đánh giá nghèo đa chiều sẽ giúp đưa ra một bức tranh tổng thể và xác đáng về tình trạng nghèo. Trên cơ sở công thức tính toán, các ngưỡng nghèo được đưa ra cho thấy những tình huống, phương án đánh giá nghèo về độ rộng, độ sâu khác nhau, qua đó các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách có thể đưa ra những phương án hỗ trợ giảm nghèo phù hợp. Ngoài ra, chỉ số nghèo đa chiều tổng hợp giúp cho việc so sánh tình trạng nghèo giữa các địa phương, quốc gia, vùng hay giữa các nhóm đối tượng trở nên dễ dàng và có tính thuyết phục cao hơn.
3. Kết luận và gợi mở hướng nghiên cứu ở Việt Nam
Nghèo đa chiều đã và đang là chủ đề thu hút được nhiều nhà nghiên cứu ngoài nước, và đã có sự thống nhất trong cách tiếp cận về nghèo phải dựa trên nhiều chiều cạnh khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì có sự thừa nhận ngày càng rộng rãi các quyền phổ quát của con người, và sự tước đoạt bất kỳ quyền nào cũng gây sự thiếu hụt cho đời sống. Tuy nhiên, trên thực tế, không có một khung khổ lý thuyết nào bao trùm việc phân tích nghèo đa chiều. Các cách tiếp cận và lý thuyết khác nhau mang lại cách hiểu khác nhau, và nhấn mạnh đến các nhân tố và quá trình trọng yếu khác nhau.
Đa số các nghiên cứu hiện nay sử dụng phương pháp luận với ngưỡng nghèo đôi của Alkire-Foster. Đây có lẽ là phương pháp luận tương đối toàn diện khi đo lường được cả tỷ lệ nghèo chung, độ rộng của nghèo và độ sâu của nghèo. Mặc dù vậy, các nghiên cứu cũng có sự khác biệt lớn trong việc xác định chiều cạnh nghèo, các chỉ báo cho từng chiều cạnh, ngưỡng nghèo của từng chỉ báo, cách thức tính trọng số của từng chỉ báo và ngưỡng nghèo chung. Sự khác biệt cũng thể hiện ở cấp độ phân tích, cá nhân hoặc hộ.
Tuy nhiên, phương pháp đánh giá nghèo đa chiều vẫn còn một số hạn chế, theo Martin Ravallion (2011), sự đóng góp của “các chỉ số đa chiều của nghèo đói” gần đây có thể không rõ ràng nếu chỉ nghĩ một chiều. Có hai vấn đề trong việc đánh giá đóng góp này của các chỉ báo:
(i) Liệu một chỉ số tổng hợp có thể đủ để phân tích về nghèo?; và (ii) Liệu tập hợp một nhóm các mục tiêu hướng tới, sử dụng giá cả nếu phù hợp hoặc “những sự tước đoạt”, sau đó sử dụng công cụ gia trọng để phân tích mới đủ?
Các tranh luận vẫn đang diễn ra về việc nên hướng đến một bộ chỉ số đa dạng có tính tin cậy hay là chỉ một chỉ số đa chiều. Một tập hợp sẽ vẫn cần thiết nhưng một cách lý tưởng thì việc xác định điểm gia trọng có thể cần phải được lựa chọn bởi những người nghèo mới có thể đạt đến sự hoàn chỉnh. Chỉ báo nghèo đa chiều dù theo phương pháp của Alkire-Santos hay bất kỳ phương pháp nào khác để xác định số lượng người nghèo có thể gây hiểu nhầm với tỷ lệ thay thế cận biên ẩn giữa các chiều.
Mặc dù các nghiên cứu về nghèo đa chiều ở ngoài nước rất hữu ích, song việc vận dụng chúng vào tính toán cụ thể cho trường hợp ở Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, do có sự khác biệt đáng kể trong hệ thống số liệu, chiến lược phát triển quốc gia, mục tiêu ưu tiên của quốc gia trong từng thời kỳ. Ngoài ra, bản thân mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt tương đối về các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa giữa các vùng, các địa phương và các nhóm. Chính vì vậy, việc xây dựng các chiều, chỉ báo, ngưỡng nghèo và trọng số của chỉ báo phải đảm bảo phản ánh được những khác biệt nêu trên.
Ở Việt Nam, nghèo là vấn đề chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố, trong đó văn hóa, tập quán là những khía cạnh đáng lưu tâm giúp nhà nghiên cứu lý giải nguyên nhân nghèo và cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đề xuất và vận dụng chính sách xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, Việt Nam có sự đa dạng đặc điểm địa lý (đồng bằng, vùng ven biển, vùng núi, cao nguyên) nên tình trạng nghèo (theo các chiều cạnh) và nguyên nhân nghèo của các vùng, địa phương sẽ rất khác biệt. Chính do sự đa dạng này mà phương pháp đánh giá nghèo đa chiều sẽ được phát huy hiệu quả trong nghiên cứu nghèo đói.
Tuy vậy, hiện nay, nghiên cứu nghèo đa chiều ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở nhóm trẻ em, nhóm dân cư đô thị trong khi vẫn còn khá nhiều hướng nghiên cứu về nghèo đa chiều có thể được áp dụng căn cứ trên vùng địa lý và đối tượng nghèo. Thứ nhất, hướng nghiên cứu nghèo đa chiều theo địa lý có thể bao gồm nghiên cứu nghèo đa chiều tại khu vực đô thị - nông thôn, miền núi - trung du - vùng ven biển, hay các vùng kinh tế - xã hội khác. Thứ hai, hướng nghiên cứu nghèo đa chiều ở các nhóm đối tượng có thể gồm nhóm dễ bị tổn thương (người cao tuổi, trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật), dân tộc thiểu số, lao động di cư,... Đây chính là khoảng trống quan trọng để không ngừng mở rộng và cải thiện phương pháp tính toán nghèo đa chiều cho Việt Nam.
Áp dụng chỉ số nghèo đa chiều tổng hợp sẽ cho thấy hiệu quả giảm nghèo và giúp so sánh tình trạng nghèo giữa các vùng và đối tượng. Các chiều cạnh nghèo cũng phản ánh bức tranh đa dạng về tình trạng nghèo; cũng như giúp các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách xác định được trọng tâm hỗ trợ giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia, địa phương tại Việt Nam đang được hoàn thiện và đồng bộ những năm gần đây được xem như một điều kiện thuận lợi cho việc tính toán các chỉ số, chiều cạnh nghèo. Bộ cơ sở dữ liệu về điều tra mức sống dân cư được cập nhật hai năm một lần thời gian qua cũng cho phép tính toán so sánh theo chuỗi. Tuy nhiên, các căn cứ xác định các chỉ báo nên theo các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) vốn đang được sử dụng rộng rãi hiện nay và đang thay thế các chỉ báo theo MDGs.
Tài liệu tham khảo
- Alkire, S., and Foster, J. E. (2007). Counting and multidimensional poverty measurement. OPHI Working Paper No 7.
- Alkire, S. (2007). Choosing dimensions: The capability approach and multidimensional poverty, Oxford poverty and human development initiative, Chronic Poverty Research Centre, Working Paper.
- Alkire, J., and Santos, M. E. (2010). Acute Multidimensional Poverty: A new index for developing contries. OPHI, Working paper No. 38.
- Alkire, S., and Foster, J. E. (2011a). Counting and multidimensional poverty measurement. Journal of Public Economics, 95(7–8), pp.476–487.
- Alkire, S., and Foster, J. (2011b). Understandings and misunderstandings of multidimensional poverty measurement. Journal of Economic Inequality, 9, pp.289-314.
- Alkire, Sabina and Suman Seth (2013). Selecting a Targeting Method to Identify BPL Households in India. Journal of Social Indices Research, 112, pp. 417-446.
- Batana, Y. M. (2013). Multidimentsional Measurement of Poverty Among Women in Sub-Saharan Africa. Springer Science+Business Media Dordrecht..
- Batana, Y. M., and Duclos, J.Y. (2010). Multidimensional poverty among West African children: testing for robust poverty comparisons. In J. M. Cockburn & J. Kabubo-Mariara (Eds.), Child welfare in developing countries (pp. 95–122). New York: Springer.
- Bourguignon, Francois and Satya R. Chakravarty (2003). The measurement of multidimensional poverty. Journal of Economic Inequality, 1(1), pp.25–49.
- Bronfman, Javier (2014). Beyond Income: A Study of Multidimensional Poverty in Chile. MPRA Paper No. 63256.
- Chakravarty, Satya R. and D'Ambrosio C. (2006). The measurement of social exclusion. Review of income and wealth, 52(3), pp.377-398.
- Chakravarty, Satya R., Deutsch, J. and Silber, J. (2008). On the Watts Multidimensional Poverty Index and its Decomposition. World Development 36(6), pp.1067-1077.
- Finn, A., Leibbrandt, M. and Woolard, I. (2013). What happened to multidimensional poverty in South Africa between 1993 and 2010?. Southern Africa Labour and Development Research Unit, Working Paper No. 99.
- García, S. and Ritterbusch, A. (2014). Child Poverty in Columbia: Constructon of a Multidimensional Measure Using a Mixed-Method Approach. Journal of Child Indices Research, 8, pp.801–823.
- Hannandita, W. and Tampubolon, G. (2015). Multidimensional Poverty in Indonesia: Trend Over the Last Decade (2003-2013). Journal of Social Indices Research, pp.1-29. DOI 10.1007/s11205-015-1044-0.
https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/3346/WPS5580.pdf?sequence=1
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) (2015). Tờ trình chính phủ đề nghị duyệt “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
- Ningaye, Paul, Ndjanyou , L. and Saakou, G. M. (2011). Multidimensional Poverty in Cameroon: Determinants and Spatial Distribution. African Economic Research Consortium, Research Paper 211.
- OPHI (Oxford Poverty and Human Development Initiative) (2011). Country briefing: South Africa: Multidimensional Poverty Index (MPI) at a glance. Oxford: Oxford Department of International Development.
- Ravallion, M. (2011). On Multidimensional indices of Poverty. Worldbank.
- Roelen, K., K. et al. (2009a). Child poverty in Vietnam: Providing insights Using a Country-Specific and Multidiemensional Model. Journal of Social Indices Research, 98, pp.129-145.
- Roelen et al. (2009b). The Importance of Choice and Definition for the Measurement of Child Poverty—the case of Vietnam. Journal of Child Indices Research, 2, pp.245-263.
- Roelen, K. (2014). Multidimensional Child Poverty in Vietnam from a Longitudinal Perspective—Improved Lives or Impoverished Conditions? Journal of Child Indices Research, 7, pp.487-516.
- Rogan, M. (2015). Gender and Multidimensional Poverty in South Africa: Applying the Global Multidimensional Poverty Index (MPI). Working paper, Springer.
- Sahn, D. E., and Stifel, D. C. (2000). Poverty comparisons over time and across countries in Africa. World Development, 28, pp.2123-–2155.
- Salazar, R. C. A, Diaz, B. Y., and Pinzon, R. B. (2013). A counting Multidimensional Poverty Index in Public Policy Context: the case of Colombia. OPHI Working paper No. 62.
- Santos, Maria E. And Karma Ura (2008). Multidimensional Poverty in Bhutan: Estimates and Policy Implications. OPHI Working Papers No.14.
- Sen, Amartya (1976). Povety: An Ordinal Approach to Measurement. Econometrica, 44(2), pp.219-231.
- Sen, Amartya (1992). Inequality Reexamined. MA: Russell Sage Foundation.
- Seth, S. and Alkire, S. (2007). Measuring and decomposing inequality among the multidimensionally poor using ordinal data: a counting approach. OPHI working paper series 7.
- Tổng cục Thống kê và UNICEF (2011). Báo cáo tình trạng trẻ em nghèo đa chiều ở Việt Nam. https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=418&ItemID=13439
- Trần Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh (2013). Xác định các chỉ báo đo lường nghèo đa chiều cho hộ gia đình nông thôn Việt Nam. http://ambn.vn/recruit/4264/xac-dinh-cac-chi-bao-do-luong-ngh%C3%A8o-da-chieu-cho-ho-gia-dinh-nong-thon-viet-nam.html
- Trani, J., F., Biggeri, M., Mauro, V. (2013). The Multidimensionality of Child Poverty: Evidence from Afganistan. Springer Science+Business Media Dordrecht.
- UN (United Nations) (2008). Tuyên bố của Liên hợp quốc tháng 6/2008.
- Watts, Harold W. (1968). An Economic Definition of Poverty. In Daniel P. Moynihan (ed.), On Understanding Poverty, New York, Basic Books.
- Yu, Jiantuo (2013). Multidimensional Poverty in China: Findings Based on the CHNS. Journal of Social Indices Research, 112, pp.315-336.
Nguồn ảnh:
https://vanbanluat.com/thong-bao-van-ban-moi/chinh-sach-doi-voi-ho-ngheo-thieu-hut-da-chieu-560-16756-article.html