Phát triển vùng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn mới
Tóm tắt: Phát triển vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước và là một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn tới. Bài viết đánh giá các mặt đạt được và các mặt hạn chế trong phát triển vùng thời gian qua ở nước ta. Nhằm mục tiêu phát triển vùng, phục vụ việc thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn mới, bài viết đề xuất một số giải pháp đối với các lĩnh vực phát triển kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao tính liên kết vùng và phương án tổ chức, điều phối vùng.
Từ khoá: Phát triển vùng; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Mở đầu
Phát triển vùng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ngay từ giai đoạn đầu Đổi mới. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đưa ra mục tiêu phát triển vùng lãnh thổ giai đoạn 1996-2000: “Tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ của cả nước. Kết hợp sự phát triển có trọng điểm với sự phát triển toàn diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt chênh lệch về nhịp độ phát triển giữa các vùng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996).
Các đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò phát triển vùng và đưa ra những định hướng cụ thể cho việc phát triển vùng. Văn kiện Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng nêu rõ định hướng và chính sách phát triển vùng, cụ thể là: “Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đồng thời ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan tỏa phát triển đến các địa phương trong vùng và đến các vùng khác… Thực hiện quy hoạch vùng, chính sách vùng; sớm xây dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối liên kết vùng theo hướng xác định rõ vai trò đầu tàu và phân công cụ thể trách nhiệm cho từng địa phương trong vùng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển vùng, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan, từ quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, quy chế phối hợp, tổ chức điều phối vùng, đến các chính sách đặc thù của vùng… Nhìn chung, vấn đề phát triển vùng ngày càng được quan tâm. Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, việc phát triển vùng cùng với cơ chế quản lý vùng đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Song, quá trình thực thi chính sách đã cho thấy, phát triển vùng ở Việt Nam vẫn còn khá nhiều bất cập, hạn chế. Bài viết này đánh giá những mặt thành công và những hạn chế, bất cập trong phát triển và quản lý vùng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy việc phát triển vùng, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn mới.
1. Đánh giá về các mặt đạt được
Có thể thấy, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và sự chỉ đạo của Chính phủ, chúng ta đã đạt được một số thành tựu trên các mặt trong phát triển vùng. Thứ nhất, về phát triển kinh tế vùng, các vùng duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá,[1] trong đó vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ và vùng Đông Nam Bộ có mức độ tập trung kinh tế ngày càng cao, tiếp tục đóng vai trò động lực, dẫn dắt tăng trưởng chung của cả nước.[2] Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động của các vùng tăng nhanh, khoảng cách giữa các vùng được thu hẹp đáng kể.[3]
Cơ cấu kinh tế của các vùng đã có sự dịch chuyển đúng hướng, bước đầu phát huy lợi thế riêng của vùng trong phát triển kinh tế. Vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp - xây dựng, trong khi các vùng còn lại chuyển dịch theo hướng dịch vụ, đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.[4] Công nghiệp trên địa bàn vùng Đồng bằng sông Hồng có bước phát triển mạnh, thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước, chuyển dịch dần sang các ngành có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao hơn. Vùng Đông Nam Bộ tiếp tục dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế trên nhiều lĩnh vực như công nghiệp, dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài, nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ cao, hội nhập kinh tế quốc tế. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phát huy lợi thế về sản xuất nông nghiệp, thủy sản; từng bước chuyển dần đất lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn, chuyển đổi phương thức sản xuất và tiêu thụ lúa gạo theo hướng liên kết, quy mô lớn; diện tích và sản lượng thủy sản tăng khá.
Việc thu hút đầu tư xã hội của từng vùng cho thấy nhiều kết quả tích cực. Quy mô vốn đầu tư của từng vùng đã tăng lên đáng kể. Vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ tiếp tục là các khu vực có sức hút đầu tư lớn của cả nước.[5] Kết cấu hạ tầng giao thông vùng và liên vùng từng bước được hoàn thiện, thúc đẩy sự gắn kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng. Một số công trình hạ tầng lớn, có ý nghĩa chiến lược với sự phát triển của vùng được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới theo quy hoạch.[6] Nhiều công trình giao thông bộ theo trục hướng tâm về Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các trục cao tốc quan trọng, tuyến giao thông tại các hành lang kinh tế trọng yếu có nhu cầu vận tải lớn, các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) được hoàn thành, đưa vào khai thác sử dụng theo quy hoạch. Qua đó góp phần khắc phục tình trạng chia cắt giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, giảm thời gian lưu thông hành khách, hàng hóa.
Thứ hai, phát triển xã hội các vùng cũng đã có những chuyển biến tích cực. Thu nhập và việc làm cho người lao động tại các vùng tiếp tục được cải thiện.[7] Tỷ lệ lao động thất nghiệp của các vùng giảm, mục tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị cơ bản hoàn thành. Quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức tại một số vùng đạt kết quả tích cực. Thu nhập bình quân của các hộ gia đình được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo của các vùng giảm nhanh.[8]
Chất lượng giáo dục - đào tạo của các vùng tiếp tục được cải thiện, đã hoàn thành và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cho 6 tỉnh/thành phố đại diện cho 6 vùng kinh tế - xã hội. Công tác đào tạo nhân lực đã có những thay đổi theo hướng tập trung nâng cao chất lượng; đào tạo gắn kết với nhu cầu lao động của địa phương, với các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao động; phát triển chương trình đào tạo đã có sự tham gia của các doanh nghiệp sử dụng lao động, xây dựng chuẩn đầu ra rõ ràng. Mạng lưới các cơ sở dạy nghề được sắp xếp lại theo hướng thu gọn, sáp nhập các cơ sở kém hiệu quả, đặc biệt tại các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Hạ tầng y tế cơ sở của các vùng được tập trung đầu tư, góp phần chia sẻ gánh nặng cho các bệnh viện Trung ương. Số lượng bệnh viện, số giường bệnh và bác sỹ do Sở Y tế quản lý tại các vùng có nhiều địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn tăng lên, cơ bản đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân trên địa bàn của các vùng.[9]
Thứ ba, về liên kết vùng, các địa phương trong vùng và ngoại vùng đã có sự phối hợp ở nhiều cấp để tháo gỡ các vướng mắc mang tính liên tỉnh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường của địa phương.[10] Cơ chế hợp tác dần đi vào chiều sâu thông qua việc ký kết các thoả thuận, tổ chức diễn đàn hợp tác, thay vì các hoạt động thăm quan, học tập kinh nghiệm như trước đây. Nhiều địa phương đã đẩy mạnh ký kết các chương trình liên kết, hợp tác phát triển, bao gồm cả liên kết vùng và ngoại vùng.[11]
Một số cơ chế, chính sách được Chính phủ ban hành và thực hiện trong vùng thời gian qua đã tạo nhiều khả năng để các vùng liên kết, chuyển đổi cơ cấu, phát triển vượt trội, lôi kéo các vùng khác cùng phát triển. Các chính sách gắn kết với phát triển vùng được ban hành trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là định hướng phát triển hạ tầng giao thông và mạng lưới đô thị. Cùng với xu hướng nâng cấp đô thị trung bình và lớn, tỷ trọng các đô thị chính tăng lên rõ rệt, tạo động lực cho sự phát triển mạng lưới đô thị cân bằng hơn, tạo động lực phát triển cho các vùng, các tỉnh miền núi.[12] Hệ thống giao thông liên tỉnh, liên vùng được ưu tiên đầu tư, tập trung vào các tuyến hành lang kinh tế trọng yếu, các trục cao tốc quan trọng.[13] Các trung tâm vùng và đô thị đã thể hiện vai trò thúc đẩy liên kết vùng và góp phần tích cực vào tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng. Điều này được thể hiện qua tăng trưởng kinh tế, đóng góp vào tổng giá trị gia tăng của vùng, cũng như việc thực hiện liên kết giữa các cực tăng trưởng, đặc biệt là thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.
Thứ tư, về tổ chức và cơ chế điều phối phát triển vùng, đã hình thành mô hình tổ chức điều phối phát triển vùng, gồm hai loại mô hình tổ chức điều phối vùng KTTĐ và mô hình tổ chức điều phối vùng do các địa phương tự nguyện thành lập. Cơ chế phối hợp xây dựng và triển khai chính sách phát triển vùng được hình thành.
2. Các mặt hạn chế
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể và rõ ràng, phát triển vùng còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Thứ nhất, về phát triển kinh tế vùng, tăng trưởng kinh tế của hầu hết các vùng còn chậm so với mục tiêu đề ra. Các vùng KTTĐ chưa thực sự phát huy vai trò động lực tăng trưởng, đầu tàu lôi kéo sự phát triển của các vùng khác trên cả nước. Nhiều mục tiêu thương mại quốc tế (về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, giá trị xuất khẩu bình quân đầu người, giá trị xuất siêu) của các vùng có khả năng không đạt mục tiêu đề ra.[14]
Chuyển dịch cơ cấu nội ngành chưa trở thành xu hướng chủ đạo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động của các địa phương trong vùng. Các vùng chưa tận dụng tốt các lợi thế tự nhiên và xã hội để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành theo hướng chất lượng, hiệu quả và giá trị gia tăng cao. Trong nông nghiệp, các lợi thế về điều kiện tự nhiên chưa được phát huy tốt để chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng bền vững, hiệu quả. Chuyên canh, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và liên kết thị trường chưa trở thành xu hướng chính trong phát triển nông nghiệp của các vùng. Trong công nghiệp, chuyển dịch theo hướng công nghiệp chế biến, chế tạo còn chậm, chưa tận dụng tốt nguồn nguyên liệu chế biến của một số vùng, khi hoạt động sản xuất vẫn chủ yếu là sơ chế với giá trị gia tăng thấp. Việc phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, ưu tiên phát triển của các vùng còn hạn chế.
Cơ cấu đầu tư chưa phù hợp với lợi thế so sánh của vùng, thu hút đầu tư còn dàn trải, trùng lắp, với cơ cấu vốn và ngành nghề khá tương đồng, chưa có sự phân công, chuyên môn hóa rõ nét để qua đó thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp trong vùng và giữa các vùng. Phát triển kết cấu hạ tầng còn thiếu đồng bộ giữa các vùng miền, khả năng kết nối trong một số vùng chưa cao. Vùng Trung du miền núi phía Bắc có kết cấu hạ tầng giao thông còn kém phát triển, các kết nối chủ yếu hướng tâm về Hà Nội, mà thiếu sự gắn kết giữa các tỉnh phía Đông và phía Bắc, cũng như các tỉnh Tây-Bắc với Đông-Bắc. Các tỉnh Bắc Trung Bộ kết nối chủ yếu qua hệ thống giao thông Bắc Nam; trong khi vùng duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, ngoài hệ thống giao thông Bắc Nam còn có các tuyến đường ngang kết nối giữa vùng duyên hải và cao nguyên hướng ra biển. Tính đồng bộ giữa các loại hình vận tải chưa cao, chủ yếu là vận tải đường bộ, kết nối đa phương thức giữa đường bộ - hàng hải và đường bộ - đường thủy nội địa còn hạn chế. Hạ tầng đường sắt kém phát triển, chưa kết nối tốt với các công trình giao thông khác, đặc biệt là cảng biển, việc đầu tư xây dựng mới và nâng cấp các tuyến đường sắt tại các vùng còn chậm. Hạ tầng đường thủy nội địa còn thiếu tính đồng bộ, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, nhất là tại Đồng bằng Bắc Bộ và phía Nam.
Thứ hai, về phát triển xã hội các vùng, mục tiêu quy mô dân số của nhiều vùng khó có khả năng hoàn thành;[15] chuyển dịch cơ cấu lao động của các vùng còn chậm, chất lượng lao động chưa cao. Hoạt động kinh tế chính của người lao động tại hầu hết các vùng vẫn chủ yếu là các công việc có thời gian lao động ngắn, tự làm trong khu vực nông, lâm, thủy sản; quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động diễn ra chậm.[16] Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ có khả năng không đạt mục tiêu đề ra và có sự chênh lệch lớn giữa Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long với các vùng khác của cả nước. Mức chênh lệch đời sống của người dân giữa các vùng còn cao, tỷ lệ hộ nghèo giữa các vùng có khác biệt lớn.
Cơ sở hạ tầng giáo dục và đào tạo mặc dù được cải thiện nhưng chưa theo kịp nhu cầu và hỗ trợ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động qua đào tạo theo trình độ. Tỷ lệ học sinh/trường học và học sinh/giáo viên phổ thông có xu hướng tăng cao.[17] Phát triển giáo dục chuyên nghiệp còn chậm, chưa tạo thay đổi căn bản trong công tác tuyển sinh, đào tạo trung cấp chuyên nghiệp.[18]
Chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ còn có sự chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các vùng miền. Cơ chế điều hành, quản lý các cơ sở y tế, đặc biệt là các bệnh viện công chậm được đổi mới. Công tác y tế dự phòng và y tế cơ sở của các vùng còn hạn chế. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn; thiếu nhân lực y tế có trình độ và phân bổ bất hợp lý.[19] Khả năng cung ứng dịch vụ y tế của tuyến y tế cơ sở, nhất là tuyến xã chưa cao.
Tốc độ đô thị hóa của các vùng còn chậm, có khả năng không đạt mục tiêu đề ra.[20] Các đô thị lớn chưa thực sự phát huy vai trò hạt nhân, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại của vùng. Hạ tầng đô thị còn kém phát triển, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và sức ép dân số, đặc biệt là tại Đông Nam Bộ.
Thứ ba, về liên kết vùng, các vùng vẫn chủ yếu phát triển ở dạng khép kín, mang tính cục bộ và thiếu tính tương tác, liên kết. Phân bố không gian phát triển trong nội vùng còn manh mún, có những ngành, lĩnh vực được đầu tư ở cả các khu vực không có lợi thế. Tình trạng trùng lặp về cơ cấu ngành, lĩnh vực đầu tư giữa các địa phương trong nội bộ vùng vẫn diễn ra, làm triệt tiêu lợi thế so sánh của các địa phương trong nội bộ vùng.[21]
Sự rời rạc, tự phát làm hạn chế khá lớn khả năng phát huy tiềm năng của vùng và giữa các vùng. Hoạt động liên kết chủ yếu mới chỉ xuất phát từ những diễn biến thực tế khi có va chạm, xung đột giữa các địa phương hay từ những hoạt động nảy sinh trong quá trình thực hiện các chương trình/dự án của từng địa phương. Liên kết giữa các địa phương mới bước đầu được hình thành trên cơ sở sự tự nguyện, chưa mang tính pháp lý và chưa thực sự trở thành một chủ trương, nguyên tắc trong tổ chức không gian phát triển của địa phương, thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để đảm bảo tính khả thi, thiếu sự điều tiết giữa các địa phương.
Phạm vi liên kết và quy mô liên kết mới chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh tế và còn mờ nhạt trong lĩnh vực xã hội, môi trường. Cơ chế phối hợp trong công tác bảo vệ môi trường, quản lý nguồn nước, khai thác tài nguyên của các địa phương còn hạn chế. Nội dung liên kết đào tạo phát triển, nâng cao chất lượng nhân lực còn đơn điệu và chỉ thực hiện khi hai địa phương hoặc hai đơn vị có nhu cầu trao đổi với nhau.
Các trung tâm vùng và các thành phố chưa phát huy hết tiềm năng trong thúc đẩy liên kết vùng. Nhiều đô thị chưa tạo ra sự đột phá cho nền kinh tế địa phương một cách rõ nét; chưa xác định rõ động lực và xác định tầm vị trí kinh tế của đô thị, để trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng. Hoạt động đầu tư cho các đô thị chưa tương xứng, dẫn đến chức năng của đô thị bị hạn chế. Đồng thời, hệ thống giao thông nối liền đô thị mới với vùng xung quanh hay các trung tâm kinh tế lớn của vùng còn hạn chế
Thứ tư, về tổ chức và cơ chế điều phối phát triển vùng, vai trò của tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ còn rất mờ nhạt. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ chủ yếu giới hạn trong việc đề xuất cơ chế, chính sách vùng, theo dõi, đôn đốc quá trình thực hiện quy hoạch. Thẩm quyền của cơ quan điều phối vùng chưa đủ mạnh để thực hiện sứ mệnh điều phối liên kết vùng, vì trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện quy hoạch, nếu các địa phương trong vùng không tuân thủ thực hiện theo đúng quy hoạch thì bộ máy vùng không có thẩm quyền để buộc các địa phương phải dừng thực thi. Bộ máy vùng không được giao nhiệm vụ liên quan tới phân bổ tài chính hay phê duyệt quy hoạch/kế hoạch của các địa phương trong vùng nên dù bộ máy vùng có đưa ra định hướng phát triển chung của vùng nhưng việc quyết định đầu tư như thế nào, đầu tư vào đâu thì chủ yếu là các bộ và địa phương quyết định. Tổ chức điều phối phát triển KTTĐ không có thực quyền trong việc quyết định các dòng ngân sách cho các dự án mang tính liên vùng.
Hội đồng vùng chưa thể điều hành một cách có hiệu quả, chưa có khả năng xây dựng định hướng, chiến lược, quy hoạch, hoạch định những chính sách riêng biệt thống nhất cho toàn vùng; không thể đại diện cho vùng để điều phối, hay phối hợp hoạt động với các địa phương, bộ ngành có liên quan, từ đó thiếu sự gắn kết, phân công giữa thành phố và các tỉnh trong vùng để phát triển những ngành có lợi thế của từng địa phương.
3. Một số giải pháp phát triển vùng để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, phát triển vùng là trụ cột cần được quan tâm. Một số giải pháp phát triển các vùng trong giai đoạn mới bao gồm:
Ưu tiên bố trí vốn đầu tư hoàn thành các dự án quan trọng quốc gia, công trình hạ tầng kỹ thuật có tính kết nối liên vùng, liên tỉnh, bao gồm cả các dự án giao thông, giáo dục và y tế. Đa dạng hóa các hình thức kết nối hạ tầng kinh tế - xã hội liên tỉnh, liên vùng, khu vực và quốc tế.
Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định rõ các lĩnh vực kết cấu hạ tầng ưu tiên đầu tư phù hợp với điều kiện tự nhiên, đặc điểm, định hướng phát triển kinh tế- xã hội của từng vùng, thứ tự các dự án ưu tiên đầu tư, bảo đảm khả năng kết nối liên vùng, liên tỉnh, khu vực và quốc tế.
Đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng các vùng KTTĐ, vùng Hà Nội và vùng thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng không gian phát triển và kết nối của các vùng này. Hiện đại hóa hệ thống giao thông, hạ tầng kinh tế- xã hội của các đô thị lớn, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Hoàn thiện thể chế thu hút nguồn vốn ngoài nhà nước đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng, đặc biệt là việc hoàn thiện thể chế đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP).
Đổi mới cách thức phân vùng kinh tế- xã hội, xác định các ngành, lĩnh vực kinh tế tập trung phát triển của từng vùng.
Hình thành các trung tâm kinh tế gắn với các phân vùng sản xuất chuyên môn hóa của vùng, làm động lực tăng trưởng nhanh, bền vững và định hướng dịch chuyển cơ cấu của cả vùng.
Nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế đô thị làm động lực mạnh cho sự phát triển chung của cả nước và từng vùng.
Quản trị tốt quá trình đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa và phát triển nông thôn, xây dựng các đô thị theo hướng đô thị thông minh, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu, đô thị xanh, có bản sắc và có tính tiên phong, dẫn dắt các hoạt động đổi mới sáng tạo, trở thành động lực của phát triển.
Phát triển xã hội vùng
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bao trùm, hạn chế tái nghèo; đổi mới các chính sách giảm nghèo với chế độ hỗ trợ có điều kiện. Tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản.
Cải cách chế độ tiền lương, tiền công, chính sách việc làm, chính sách bảo hiểm theo vùng. Gắn trực tiếp các mục tiêu, chỉ tiêu về lao động, việc làm với mục tiêu phát triển kinh tế của các vùng.
Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các vùng, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động của từng vùng. Tạo điều kiện để phát triển thị trường lao động hiện đại, thông thoáng; nâng cao chất lượng hệ thống thông tin dự báo thị trường lao động và chất lượng dịch vụ việc làm của từng vùng, từng địa phương. Đổi mới hệ thống cơ sở đào tạo, dạy nghề của các vùng; phát triển một số cơ sở đào tạo bậc cao cấp vùng.
Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội tại các địa phương trong vùng.
Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản; bảo đảm công khai, minh bạch và quyền được tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Liên kết vùng
Xây dựng cơ chế liên kết phát triển vùng, trong đó cần bảo đảm: (i) Liên kết xuất phát từ phía cầu, tức là dựa trên nhu cầu cần phối hợp thực sự giữa các địa phương; (ii) Bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi giữa các bên; (iii) Liên kết hướng tới tối đa hóa lợi ích của toàn vùng, phù hợp với Chiến lược phát triển, Quy hoạch vùng và các quy hoạch ngành; (iv) Cần có liên kết mang tính bắt buộc, đặc biệt là các lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn, cần nguồn lực của cả Trung ương và địa phương, liên kết trong các lĩnh vực mang tính tổng hợp, phức tạp như: bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên,…; (vi) Liên kết cần phù hợp với cơ chế thị trường, nhấn mạnh vai trò định hướng, thúc đẩy của nhà nước trong quá trình liên kết giữa các doanh nghiệp và các địa phương với nhau.
Xác định rõ liên kết trọng tâm của từng vùng. Liên kết vùng cần phải được thực hiện thường xuyên và các hoạt động liên kết cần phải “tức thời” ngay khi có những phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Các hoạt động liên kết, đặc biệt là liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng được hình thành trên cơ sở những hoạt động kinh tế chung, liên quan trực tiếp đến nhiều địa phương trong vùng. Sự liên kết hợp tác trên cơ sở phân công theo thế mạnh của từng địa phương trong vùng.
Xác định một số lĩnh vực mang tính bắt buộc các địa phương phải liên kết, phối hợp, như: lập quy hoạch/kế hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng (đặt biệt là trong xây dựng các tuyến trục giao thông huyết mạch, các cảng biển, sân bay, phát triển đô thị,...), sử dụng tài nguyên (nhất là tài nguyên nước), ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển các sản phẩm chủ lực của vùng.
Cơ chế tổ chức và điều phối phát triển vùng
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý đủ mạnh về vùng; hệ thống luật pháp quy định về chính quyền địa phương cần phù hợp để hoàn thiện thể chế vùng. Xây dựng quy định rõ ràng, cụ thể về các lĩnh vực cần có cơ chế điều phối cũng như quy định về tổ chức quản lý cấp vùng, đặc biệt về vấn đề ngân sách.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch vùng, các Bộ, ngành Trung ương cần phối hợp với địa phương để phân tích, đánh giá có hệ thống các cơ chế, chính sách và quy hoạch của Trung ương dành cho vùng, đặc biệt là tỷ lệ điều tiết ngân sách đối với địa phương để tái đầu tư và phát triển hạ tầng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước; hiệu quả của công tác lập, quản lý và triển khai hệ thống các quy hoạch từng ngành, lĩnh vực gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.
Nâng cao vai trò của Ban chỉ đạo điều phối liên kết vùng ở Trung ương, tập trung vào: (i) Nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về tầm nhìn, chiến lược, quy hoạch và khung chính sách phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và vùng; (ii) Nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về chiến lược, quy hoạch và khung chính sách phát triển ngành; (iii) Theo dõi, đôn đốc và giải quyết các vấn đề liên quan tới chính sách phát triển vùng và các dự án phát triển vùng; đóng vai trò là “trọng tài” giải quyết các tranh chấp/xung đột nếu ở cấp vùng và địa phương không giải quyết được; (iv) Xây dựng mạng lưới thông tin, dữ liệu quốc gia và vùng.
Kiện toàn bộ máy vùng theo hướng trao đủ thực quyền ra quyết định cho Tổ chức điều phối phát triển các vùng, đặc biệt là Hội đồng vùng.
Xây dựng cơ chế thành lập Quỹ Hội đồng vùng được hình thành từ một phần kinh phí do Trung ương cấp, một phần từ đóng góp của các địa phương trong vùng và các nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Thành lập các tổ tư vấn của Ban chỉ đạo điều phối liên khu vực và Hội đồng vùng để huy động các chuyên gia, nhà khoa học tham gia vào xây dựng cơ chế, chính sách phát triển vùng.
Kết luận
Phát triển vùng tiếp tục là vấn đề được quan tâm và là một trong những trụ cột để thực hiện thành công, có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong giai đoạn mới. Để các vùng có thể phát triển nhanh và bền vững, đóng góp có hiệu quả cho sự phát triển chung của đất nước, cần có các giải pháp toàn diện và cụ thể. Nhóm giải pháp cần chú trọng trước hết là các giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao tính liên kết vùng, phát triển các ngành kinh tế, cụm liên kết theo vùng, cũng như hình thành và vận hành có hiệu quả bộ máy điều phối vùng. Với những giải pháp cụ thể về các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội, liên kết vùng và tổ chức, điều phối phát triển vùng, bài viết này có đóng góp trực tiếp cho việc thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo
- Các số liệu trong bài viết được tổng hợp từ Niên giám thống kê giai đoạn 2010-2018 và từ các báo cáo của Chính phủ.
- Đảng cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đảng cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Chú thích:
[1] Các vùng có tốc độ mở rộng GRDP trong giai đoạn 2011-2017 dao động từ 1,5-2 lần, riêng vùng Đồng bằng sông Hồng mở rộng khoảng 1,1 lần.
[2] Năm 2017, vùng Đồng bằng sông Hồng có mật độ kinh tế đạt 40,1 tỷ đồng/km2, vùng KTTĐ Bắc Bộ có mật độ kinh tế đạt 85,6 tỷ đồng/km2, Đông Nam Bộ có mật độ kinh tế đạt 83,8 tỷ đồng/km2, vùng KTTĐ phía Nam có mật độ kinh tế đạt 70 tỷ đồng/km2; trong khi mật độ kinh tế chung của cả nước chỉ đạt 15,1 tỷ đồng/km2.
[3] So với năm 2010, khoảng cách về năng suất lao động trong doanh nghiệp giữa các vùng có sự thu hẹp đáng kể. Năm 2016, năng suất lao động trong doanh nghiệp giữa các vùng dao động trong khoảng 1.100-1.300 triệu đồng/người (trong khi năm 2010, mức độ biến thiên khá lớn, từ thấp nhất là gần 400 triệu đồng/người đến cao nhất là khoảng 860 triệu đồng/người). Tốc độ tăng năng suất lao động cơ bản cao hơn tốc độ tăng GDP của nền kinh tế (trừ Đồng bằng sông Cửu Long).
[4] Tỷ trọng khu vực công nghiệp của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc tăng từ 30,2% năm 2011 lên 44,5% năm 2017, vùng Đồng bằng sông Hồng tăng từ 45,5% năm 2011 lên 55% năm 2017; trong khi tỷ trọng khu vực dịch vụ của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng 41% năm 2011 lên 45,5% năm 2017, Đông Nam Bộ tăng từ 36,4% năm 2011 lên 47% năm 2017 (mục tiêu là trên 44% vào năm 2020), Đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 36,5% năm 2011 lên 42,3% năm 2017, Tây Nguyên tăng từ 34,4% năm 2011 lên 41,3% năm 2017.
[5] Năm 2011, tổng vốn FDI đăng ký vào 2 vùng này là 12,6 tỷ USD, tăng lên đạt 30,7 tỷ USD năm 2018 (chiếm 80% vốn FDI đăng ký của cả nước).
[6] Một số cảng biển lớn của vùng và cả nước được đầu tư, đặc biệt là cảng biển quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép- Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu), cảng Cam Ranh (Khánh Hòa), Chân Mây (Thừa Thiên Huế).
[7] Tỷ lệ lao động phi chính thức tại hầu hết các vùng đều giảm trong giai đoạn 2014-2016 (ngoại trừ Đông Nam Bộ và vùng Trung du và Miền núi phía Bắc), trong đó vùng Đồng bằng sông Hồng có mức giảm cao nhất (2,3 điểm %). Các thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng có mức giảm lớn, lần lượt là 4,5 điểm % và 4,4 điểm %.
[8] Năm 2016, thu nhập bình quân nhân khẩu 1 tháng của vùng Đồng bằng sông Hồng là 3,9 triệu đồng (tăng 16,2%/năm trong giai đoạn 2010-2016), Trung du và Miền núi phía Bắc là 1,96 triệu đồng (tăng 13,8%/năm trong giai đoạn 2010-2016), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 2,36 triệu đồng (tăng 15%/năm trong giai đoạn 2010-2016), Tây Nguyên là 2,37 triệu đồng (tăng 13,8%/năm), Đông Nam Bộ là 4,66 triệu đồng (tăng 12,5%/năm trong giai đoạn 2010-2016) và Đồng bằng sông Cửu Long là 2,78 triệu đồng (tăng 14,3%/năm trong giai đoạn 2010-2016); cả nước là 3,1 triệu đồng (tăng 14,3%/năm trong giai đoạn 2010-2016).
[9] Số bệnh viện y tế cấp tỉnh tại vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung tăng 17 bệnh viện (lên đạt 242 bệnh viện), Tây Nguyên tăng 9 bệnh viện (lên đạt 80 bệnh viện) và Đồng bằng sông Cửu Long tăng 12 bệnh viện (lên đạt 169 bệnh viện) trong giai đoạn 2011-2017.
[10] Tại Vùng KTTĐ Duyên hải miền Trung, Ban Điều phối liên kết phát triển vùng được thành lập trên cơ sở thỏa thuận của lãnh đạo các tỉnh, có thành phần bao gồm lãnh đạo cao nhất của các tỉnh thuộc Vùng (Bí thư Tỉnh ủy).
[11] Chẳng hạn như các biên bản hợp tác phát triển du lịch được ký kết giữa Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái nguyên và Hà Nội; TP. Hồ Chí Minh với Tây Nguyên; Tây Nguyên với vùng KTTĐ Duyên hải miền Trung; phát triển các tuyến du lịch liên tỉnh như Con đường di sản miền Trung, Hành trình qua các kinh đô Việt cổ.
[12] Số lượng thành phố và thị xã tăng từ 103 đơn vị năm 2011 lên 118 đơn vị năm 2017; trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 20 thành phố và thị xã năm 2011, đến năm 2017 đã đạt 27 đơn vị. Vùng núi biên giới phía Bắc có đô thị loại II (thành phố Lào Cai), loại III (thành phố Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Điện Biên, Lai Châu), Tây Nguyên có đô thị loại I (thành phố Buôn Mê Thuột và Đà Lạt) làm động lực cho vùng, loại II (thành phố Pleiku) và nhiều đô thị loại III làm động lực cho tỉnh.
[13] Như tuyến đường cao tốc Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, đường cao tốc Hà Nội- Lào Cai, TP. Hồ Chí Minh- Trung Lương, TP. Hồ Chí Minh- Long Thành- Dầu Giây, các tuyến đường ven biển, đường cao tốc Bắc- Nam.
[14] Mục tiêu cân bằng cán cân xuất- nhập khẩu và đạt mức xuất siêu trung bình 3-4 tỷ USD/năm của vùng Đồng bằng sông Hồng (năm 2018 nhập siêu 11 tỷ USD); mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung đạt 16-18%/năm trong giai đoạn 2011-2015 lên đạt trên 10 tỷ USD vào năm 2015 và trên 20%/năm trong giai đoạn 2016-2020 (giai đoạn 2011-2015 chỉ tăng 11,8%/năm lên đạt 7,4 tỷ USD, giai đoạn 2016-2018 chỉ tăng 16,6%/năm); mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Tây Nguyên đạt 17%/năm trong giai đoạn 2011-2015 và 15,5%/năm trong giai đoạn 2016-2020; mục tiêu giá trị xuất khẩu bình quân đầu người đạt 7.200 USD vào năm 2020 của Đông Nam Bộ (năm 2018 chỉ đạt 5.471 USD/người); mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt trên 12%/năm trong giai đoạn 2011-2015 (giai đoạn 2011-2015 chỉ tăng 5,8%/năm).
[15] Đến năm 2017, quy mô dân số của vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung mới đạt gần 20 triệu người (tăng khoảng 800 nghìn người trong giai đoạn 2011-2017, trong khi mục tiêu đến năm 2020 đạt 21,2 triệu người); vùng Tây Nguyên mới đạt 5,78 triệu người (tăng khoảng 500 nghìn người trong giai đoạn 2011-2017, trong khi mục tiêu đến năm 2020 đạt 6,4 triệu người); vùng Đồng bằng sông Cửu Long mới đạt 17,7 triệu người (tăng khoảng 400 nghìn người trong giai đoạn 2011-2017, trong khi mục tiêu đến năm 2020 đạt 18,8 triệu người).
[16] Khảo sát mức sống dân cư năm 2016 cho thấy, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên có công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc năm 2016 là 66,3% (giảm 0,6 điểm % so với năm 2010), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là 50,4% (giảm 4,4 điểm % so với năm 2010), Tây Nguyên là 70% (tăng 1,5 điểm % so với năm 2010) và Đồng bằng sông Cửu Long là 45,7% (giảm 3,5 điểm % so với năm 2010). Trong khi đó, tỷ lệ này ở Đồng bằng sông Hồng năm 2016 chỉ đạt 28% và Đông Nam Bộ chỉ đạt 16,9%.
[17]Tỷ lệ học sinh/giáo viên phổ thông tại các Vùng (ngoại trừ Tây Nguyên) có xu hướng tăng lên, đặc biệt tại Đồng bằng sông Hồng (năm 2017 đạt 20,1 học sinh/giáo viên, tăng 2,1 học sinh). Ngoại trừ vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, số học sinh/trường học phổ thông của các Vùng còn lại tăng nhanh, đặc biệt là Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ (lần lượt tăng bình quân 2,3%/năm và 2,4%/năm trong giai đoạn 2011-2017).
[18] Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Quyết định số 1033/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020”, chỉ tiêu phát triển giáo dục chuyên nghiệp không đạt, quy mô tuyển sinh giảm 18%; tỷ lệ huy động học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp chuyên nghiệp đạt khoảng 9%, thấp hơn chỉ tiêu đặt ra là từ 10-15%.
[19] Tỷ trọng ngân sách nhà nước hiện nay đầu tư cho ngành y tế ở tuyến xã còn rất hạn chế, chưa đảm bảo 30% cho chi dự phòng.
[20] Tỷ lệ đô thị hóa của vùng Trung du và Miền núi phía Bắc năm 2017 chỉ đạt 18,8% (mục tiêu năm 2020 là 34,4%), vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung năm 2015 là 28,4% (mục tiêu là 32%) và năm 2017 là 28,7% (mục tiêu năm 2020 là 42%), Tây Nguyên năm 2015 là 29% (mục tiêu là 31,5%) và năm 2017 là 29,2% (mục tiêu năm 2020 là 36,2%), Đông Nam Bộ năm 2017 là 62,3% (tăng 1,4 điểm % so với năm 2011, mục tiêu năm 2020 là 75%) và Đồng bằng sông Cửu Long năm 2015 là 25% (mục tiêu là 32%) và năm 2017 là 25,5% (mục tiêu năm 2020 là 34,2%).
[21] Phát triển hạ tầng là một ví dụ. Việt Nam hiện có khoảng 100 cảng biển, trong đó có 22 cảng quốc tế, 23 cảng hàng không (trong đó có 10 cảng hàng không quốc tế). Tuy nhiên, hiệu quả khai thác các sân bay, cảng biển này rất hạn chế, như sân bay Chu Lai - Quảng Nam chỉ khai thác khoảng 8% công suất, sân bay Tuy Hòa - Phú Yên là khoảng 11,6%, Thọ Xuân - Thanh Hóa là khoảng 27,2%.